Bạn đang xem bản đúc kết của ebook. Xem & tải ngay bản đầy đủ của ebook tại đây (749.29 KB, 91 trang )
Phần Bài viết
Chương 1
Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân
Cuộc sống & sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Tuân đã có những
đóng góp trọng yếu so với nền văn học dân tộc & con người. Qua những
trang viết của nhà văn, người xem có thể nhận thấy được này là văn chương của
Nguyễn Tuân, những ngôn từ đó là của riêng Nguyễn Tuân. Ngay từ những
tác phẩm trước hết của ông người xem đã có thể nhận thấy cái riêng, cái mới mẻ
tài hoa, thông thái của cá nhân nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân là người có tài,
có sự hiểu rõ sâu sắc, có vốn từ đa dạng, có lòng say mê ngành nghiệp, ham
tìm hiểu sáng kiến… Mọi câu, mọi chữ nhà văn sử dụng rất hợp lý vừa lại có
duyên, hình như có sự hoà quyện cả thơ, ca, nhạc, họa. Nhà văn Anh Đức
đã cam đoan Nguyễn Tuân rất xứng đáng là: “Một bậc thầy của nghệ thuật
ngôn từ… một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng chữ tuôn ra đầu ngọn
bút đều như có đóng một dấu triện riêng”(56/524). Không phải dễ gì nhà văn nào
cũng xây dựng được cho mình một sở thích riêng, mà thực ra chỉ những
nhà văn lớn, có tài năng mới có thể xây dựng cho mình một sở thích riêng
mới mẻ. So với nhà văn Nguyễn Tuân, trải qua hơn 60 năm cầm bút đã để
lại cho đời một di sản văn học đáng quý. Để hiểu được các sáng tác của nhà
văn Nguyễn Tuân, đầu tiên tất cả chúng ta phải hiểu được: Quan điểm nghệ thuật
của Nguyễn Tuân.
Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là một vấn đề khá cầu kỳ, có
nhiều tranh chấp, không nhất quán, đặc biệt là công đoạn trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Khi bàn tới quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân, Nguyễn
Đăng Mạnh trong Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1, năm 1981
11
có viết: “Một nhà văn của quan điểm duy mỹ (…) một môn đồ của thuyết nghệ
thuật vị nghệ thuật (…) chỉ trọng cái đẹp hình thức, không cần nội dung, chủ
trương viết văn không khuynh hướng, nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên
mọi thứ thiện ác ở đời”(56/91). Theo Nguyễn Đăng Mạnh quan điểm ấy được
trổ tài ngay trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân: “Thể hiện ngay ở
những nhân vật ưa thích nhất của ông trước cách mạng: những con người tài
hoa tài tử, dù tĩnh tại hay xê dịch đối với cuộc sống, đối với quê hương đều
chỉ là những kẻ ăn tạm, ở nhờ, những con người sinh ra dường như chỉ để
ngắm đời, ngoạn cảnh cho giác quan được no nê thanh sắc và để trổ tài khoe
chữ, chứ không chịu gánh lấy một trách nhiệm xã hội nào”(56/91). Quan điểm
nghệ thuật ấy không những được trổ tài thông qua những hình mẫu nhân vật
trong tác phẩm của nhà văn, mà nhiều khi còn được trổ tài dưới dạng những
định nghĩa hoặc những ngôn từ trực tiếp trong tác phẩm. Trong tác phẩm
Nguyễn nhà văn Nguyễn Tuân có viết: “Mỹ thuật vốn không là bà con với
luân lý của thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt
túi người ta rất gọn, rất nhanh”(9/1011).
So với nhà văn Nguyễn Tuân, hình như nghệ thuật là toàn bộ, quan
niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” được coi như một tiêu chí của lý tưởng
thẩm mĩ. Khát vọng của nhà văn mong muốn vươn tới & trổ tài trong tác phẩm
của mình là “cái đẹp” & chỉ “cái đẹp” mà thôi. Trong tuỳ bút Tóc chị Hoài
Nguyễn Tuân cho là: “Cái người nào trong suốt một đời người mà không
được ngắm một mớ tóc cho tử tế thì cái thẩm mĩ quan của người ấy còn lung
lay lắm”(13/338). Nhiều khi Nguyễn Tuân còn khen ngợi vẻ đẹp ma quái của tiếng
lũ, cuộc lũ hát cứ như một thứ thôi miên, hình như tiếng lũ khiến cho
người ta quên đi mọi thứ ở trên đời: “Người ta vừa hát, vừa khóc và người ta
đàn đến cái mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí”(13/407).
12
Như thế tất cả chúng ta có thể thấy rằng: trước Cách mạng tháng Tám quan
điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân rất trọng nét đẹp cách thức, thậm chí có lúc
đến mức cực đoan. Nói như thế cũng không có nghĩa là khi nào quan điểm ấy
cũng chi phối ngòi bút của ông. Bởi lẽ có nhiều trang viết của Nguyễn Tuân
đã trổ tài thái độ yêu ghét, trọng khinh cụ thể mà không phải khởi nguồn từ
tiêu chí cách thức. Những trang viết về nhân vật Huấn Cao trong truyện
ngắn Chữ người tử tù là một chẳng hạn: Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa, có tài
viết chữ nổi tiếng tỉnh Sơn, mà chơi chữ là một thú chơi thanh tao của người
xưa, rất là nhiều người mong ước, nhất là viên quan coi ngục mong ước có được
chữ của Huấn Cao treo trong nhà: “Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một
báu vật ở trên đời”(13/100). Huấn Cao không những là một nghệ sĩ tài hoa mà còn
là một bậc người hùng cứu nước, tuy chí lớn không thành nhưng khi nào cũng
giữ tư thế hiên ngang quật cường. Huấn Cao khinh nhờn quyền lực, khinh bỉ
viên quan coi ngục. Nhưng sau thời điểm hiểu được tấm chân tình của viên quản ngục,
một nhân loại dù rằng ở chốn ngục tù khuất tất nơi cái ác, cái xấu ngự trị mà
vẫn biết yêu, biết quý nét đẹp, Huấn Cao đã chấp thuận cho chữ: “Nào ta có biết
đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”(13/101). Không
những vậy mà Huấn Cao còn khuyên nhủ rất chí tình so với viên quản ngục:
“Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi (…) ở đây khó giữ thiên lương
cho lành vững, rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện”(13/102).
Như thế vẻ đẹp trong tư cách của Huấn Cao có sự hợp nhất giữa
tài hoa, khí phách hiên ngang & cái tâm trong sáng. Qua hình mẫu nhân vật
Huấn Cao, tất cả chúng ta thấy được một phương diện nào đó trong quan điểm về
nét đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân: cái tài gắn với nét đẹp – nét đẹp ở vẻ tài
hoa, nét đẹp ở khí phách hiên ngang quật cường & nét đẹp ở tâm hồn trong sáng
của nhân loại. Trong tác phẩm Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân say sưa
13
đi tìm vẻ đẹp của một thời xưa cũ mà nay chỉ còn vang bóng. Đây là một công
việc có ý nghĩa to lớn: phải yêu quý & mong muốn lưu lại lại những vẻ đẹp đã
qua thì Author mới say sưa, miệt mài viết về nó như thế. Chữ người tử tù nói
riêng hay Vang bóng một thời nói chung là một tác phẩm rực rỡ đánh dấu
bước đường trở lại tìm những vẻ đẹp xưa mà người đời thường quên lãng.
Trong truyện Bữa rượu máu in trong tập Vang bóng một thời cũng
vậy, không phải chỉ có chủ nghĩa cách thức là cốt yếu mà truyện còn tồn tại nội
dung xã hội đưa ý nghĩa sâu sắc. Thông qua những hình mẫu, những chi
tiết trong truyện Author đã lên án & cáo giác chính sách tàn nhẫn của thực dân Pháp
cùng tội ác của những tên bán nước hại dân, chúng đã bày ra nghệ thuật chém
đầu người. Trong truyện hình như Author có lẽ rất thản nhiên khi diễn tả
cảnh tên công sứ Tây & thằng Tổng đốc, vui vẻ chúc rượu nhau trước khi ra
lệnh chém đầu mấy nghĩa quân Bãi Sậy. Đây là hành động của những kẻ độc
ác, man rợ, lạnh lùng thản nhiên trước chết chóc của những người nghĩa quân
yêu nước. Chính vì như thế mà tội ác của chúng gây ra cuối cùng phải trả giá.
Bất chợt một cơn bão dữ dội đột ngột xoáy bốc cát mù mịt chạy theo chúng,
ném cái mũ của tên công sứ lăn lộn dưới bãi cỏ pháp trường. Đây là một trong
những cụ thể thật sâu sắc của tác phẩm trổ tài thái độ phê phán kín đáo &
không kém phần thâm thuý của Author.
Nếu nhìn từ góc độ lịch sử rõ ràng và cụ thể để cân nhắc quan điểm nghệ thuật của
nhà văn Nguyễn Tuân, tất cả chúng ta có thể hiểu được những tranh chấp trong
quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân vốn dĩ là môn đồ của
thuyết: “nghệ thuật vị nghệ thuật”, “trọng cái đẹp hình thức”. Nhà văn có quay
lưng lại với hiện thực nhưng này là hiện thực khuất tất của xã hội thực dân
phong kiến, chứ không phải quay lưng lại với những tinh hoa, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc cũng như những cảnh đẹp thơ mộng của quê hương, đất
nước. Trước Cách mạng tháng Tám nhà văn chưa đủ sức mạnh để chống lại
14
xã hội thực dân phong kiến dù rằng ông có lòng yêu dân, yêu nước tha thiết.
Vì vậy toàn bộ những gì mà ông yêu quý cũng như tâm sự của chính mình
Nguyễn Tuân đều gửi gắm vào trong các tác phẩm văn chương.
Qua các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, người xem nhận ra: suốt
cả cuộc sống cầm bút của mình, Nguyễn Tuân đã khao khát đi tìm & tôn thờ
nét đẹp, cái thật trong cuộc đời giờ đây, trong dĩ vãng, trong cả cuộc đời
giang hồ, di dời. Chính vì như thế mà trong bài điếu văn truy điệu nhà văn
Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Đình Thi có viết: “Tôi nghĩ rằng có lẽ trong
những trang viết của Nguyễn Tuân ở dưới sâu những cái bề ngoài nổi gai góc
hoặc phiêu lãng, ở đằng sau những sự ngoa ngoắt và cả khinh bạc của một
thời ngột ngạt, quẩn quanh, tù túng, bế tắc, ở dưới sâu tất cả những cái ấy là
sự đi tìm cái đẹp và đi tìm cái thật, là nỗi khao khát cái đẹp và nỗi khao khát
cái thật, là lòng yêu cái đẹp và yêu cái thật”(56/547).
Trong bài Nguyễn Tuân & nét đẹp, nhà tìm hiểu Hà Văn Đức có
viết về quan điểm của nhà văn Nguyễn Tuân: “Tách rời cái đẹp khỏi cái có
ích, đề cao cái đẹp thuần tuý không vụ lợi (…) cái đẹp chỉ nhằm thoả mãn,
đáp ứng những khoái cảm thẩm mĩ của cá nhân”(56/180). Về phương diện nào
đó quan điểm của Nguyễn Tuân có điểm gặp mặt tương đồng với Kant – nhà
triết học Đức nổi tiếng, người đề xướng nhận thức duy tâm chủ quan. Kant
cho là: “Cái đẹp không phải ở má hồng người thiếu nữ mà là trong con mắt
xanh của kẻ si tình”. Chính quan niệm ấy đã nhiều lần bộc lộ trong các tác
phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 như:
Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị
Hoài… Người xem dễ nhận ra trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, ông hết
sức chiều chuộng, trân trọng & khao khát đi tìm nét đẹp. Nguyên Ngọc rất trân
trọng & hâm mộ nhà văn Nguyễn Tuân, trong Ký ức & Kỷ niệm về nhà
văn Nguyễn Tuân, ông viết: ” Nguyễn Tuân luôn muốn mỗi ngày sống, mỗi
15
trang đời của mình là một trang nghệ thuật (…) Đó là thái độ thẩm mĩ đặc
biệt của ông, riêng ông đối với cuộc sống”(56/534).
Nguyễn Tuân đã khao khát đi tìm nét đẹp trong cuộc đời giờ đây
đương thời, nhưng đã không được toại nguyện. Hay nói cách khác, ông khó
lòng tìm ra nét đẹp, cái thật trong xã hội “ối a ba phèng”, ông căm ghét
cuộc đời giờ đây xấu xa, thối nát. Nguyễn Tuân đã đi tìm nét đẹp trong quá
khứ, nét đẹp của một thời còn vang bóng. Thế rồi cuộc đời giang hồ, di dời
đã cuốn hút, hấp dẫn ông, Nguyễn Tuân lại khao khát đi tìm nét đẹp để thoả
lòng mình. Nguyên nhân khiến Nguyễn Tuân phải đi tìm nét đẹp trong dĩ vãng hay
trong cuộc sống di dời theo Nguyễn Đình Thi là vì: “Trong cuộc đời ông sống
trước cách mạng, cái đẹp với cái thật không bao giờ khớp được với
nhau”(56/547). Cuộc đời hiện thực mà người nghệ sĩ đang sống toàn những
chuyện xấu xa, lừa lọc. Chính vì như thế mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, theo đuổi cái
đẹp trong dĩ vãng, trong bước đường giang hồ di dời. Bên cạnh đó, cũng xuất
phát từ góc độ nét đẹp, nhà văn Nguyễn Tuân đã có phát hiện một cách sắc
sảo những nét phản thẩm mĩ, những mặt xấu xa, thấp hèn của bầy người trọc
phú, trưởng giả trong xã hội đương thời. Điều đáng cảnh báo bước này là thái độ phê
phán của nhà văn Nguyễn Tuân so với xã hội chủ chốt khởi nguồn từ góc độ
thẩm mĩ, chứ không phải quan điểm giai cấp. Ông lên án bầy người xấu xa vì
chúng không biết chiều chuộng, trân trọng nét đẹp, chứ không phải vì chúng áp
bức bóc lột. Đây chính là điểm phân biệt sắc nét nhà văn Nguyễn Tuân với các
nhà văn hiện thực cùng thời. So với nhà văn Nguyễn Tuân, việc phản ứng lại
xã hội trên phương diện mĩ học là một đặc điểm nổi trội không giống với bất
cứ nhà văn nào. Ông suốt đời tôn thờ nét đẹp & khao khát đi tìm nét đẹp như
một cứu cánh, một phương tiện để cam đoan mình. Chính điều này đã lí giải
những ưu điểm cũng như những giới hạn trong quan điểm về nét đẹp của nhà
văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đọc những tác
16
phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, người xem nhận ra trong việc tôn thờ cái
đẹp nghệ thuật, đôi lúc nhà văn đã quá sa đà & trở nên cực đoan. Trong tác
phẩm Tóc chị Hoài của Nguyễn Tuân viết: “Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm xuống
rất nhẹ nhàng thì cả một mớ tóc trần quấn rất chắc ấy đổ tung xuống như một
trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy ấp
lấy bả vai (…) cái người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm
một mớ tóc cho tử tế thì cái thẩm mĩ quan của người ấy còn lung lay
lắm”(13/338). Khi diễn tả vẻ đẹp của mái tóc, Nguyễn Tuân đã tuyệt đối hoá cái
đẹp về cách thức.
Quan điểm thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng
Tám có vẻ ít nhiều chịu ràng buộc từ toàn cầu quan duy tâm siêu hình, với một
cái tôi cá nhân chủ nghĩa cực đoan nên nó đưa đậm màu sắc bi thiết. Tuy
nhiên có thể biết được những tuyên ngôn của nhà văn về nét đẹp đưa màu
sắc duy mĩ, cực đoan, nhiều khi chỉ là một phương pháp để nhà văn phản ứng lại xã
hội, hoặc chứng tỏ cái tôi mới mẻ của mình. Xét về một góc cạnh nào đó,
trong quan điểm của nhà văn còn tồn tại những yếu tố giới hạn, song điều đáng
nói bước này là qua những trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, người xem vẫn
nhận ra giá trị đích thực của văn chương. Một trong những giá trị đó chính
là: lòng tự hào dân tộc, ý thức gìn giữ ca ngợi những vẻ đẹp & giá trị thẩm mĩ
dân tộc. Hay nói cách khác đó chính là lòng yêu quê hương, quốc gia thiết tha
của nhà văn Nguyễn Tuân.
Sau thời điểm Cách mạng tháng Tám thành công nhà văn Nguyễn Tuân vẫn
tiếp tục trên đoạn đường đi tìm nét đẹp, cái thật. Ông đã say sưa với cuộc đời
giờ đây & miệt mài sáng tác những tác phẩm giá trị như: Đường vui, Tình
campaign, Tuỳ bút kháng chiến, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi… Nếu
như ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân cảm thấy “cái đẹp
và cái thật không ăn khớp nhau” thì sang giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám,
17
Nguyễn Tuân mới nhận ra giữa nét đẹp & cái thật có sự hoà hợp tương
đồng. Trong nét đẹp bao hàm cả cái thật & chính cái thật, cái hiện thực của
cuộc đời đã khiến Nguyễn Tuân tìm tòi được vẻ đẹp của cuộc đời, của
tâm hồn mỗi nhân loại & giúp ông cảm thấy yêu đời, yêu cuộc đời hơn bao
giờ hết. Ông đã hoà mình vào cuộc đời của nhân dân, cuộc đời tranh đấu
& xây dựng quốc gia. Như thế đoạn đường đi đến nét đẹp, cái thật, đến với
chân lí của nhà văn Nguyễn Tuân đó chính là đoạn đường nhà văn trở về với
nhân dân, với dân tộc.
Như đã nói ở trên quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân là
một vấn đề khá cầu kỳ. & tính cầu kỳ ấy còn được trổ tài ở cái Tôi cá
nhân nhà văn.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhìn chung cái Tôi của
Nguyễn Tuân là cái Tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội. Trong cuốn
Nhà văn viet nam 1945 – 1975, tập 2, GS.Phan Cự Đệ đánh giá: “Đó là cái
tôi lập dị, ngang chướng, đi lù lù giữa cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung
quanh, khiêu khích với xung quanh (…) Nhân vật Nguyễn chốc buồn đấy rồi
chốc lại vui đấy, ngủ lúc đứng, ăn lúc nằm, đi tản bộ trong cơn mưa rào; khi
không giữa một tiệc thọ vui lại khóc rống lên vì thương nhớ một người bạn đã
khuất bóng từ bao giờ và lôi ra toàn những chuyện xe đòn, mũ mấn áo trám
giữa một tiệc cưới mà thực khách đều mặc toàn áo gấm trần”(56/103). Nhiều khi
Nguyễn Tuân sống & viết là chỉ cốt sao trổ tài cái cá nhân của mình, còn
toàn cầu khách quan không có gì đáng kể. Nguyễn Tuân đã từng tự hoạ chân
dung của mình trong tuỳ bút Tóc chị Hoài: “Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa
cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ
hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của
mình”(13/337). bước này Nguyễn Tuân đã không ngần ngại để nói về mình, chính
vì khởi nguồn từ cái Tôi cá nhân, hay nói cách khác: Nguyễn Tuân đã ca ngợi cái
18
Tôi cá nhân, ẩn mình trong cái vỏ cá nhân, không hoà mình với toàn cầu xung
quanh, nên nhiều khi Nguyễn Tuân mất niềm tin vào cuộc đời, không dám
tin vào bất kể điều gì, ngoài bản thân mình. Vì quá ca ngợi cái Tôi cá nhân mà
nhiều khi có tác động tiêu cực đến các sáng tác của nhà văn, làm cho một
số sáng tác của nhà văn trước Cách mạng tháng Tám đi vào ngõ cụt, không lối
thoát. Đây là một giới hạn trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Tuân. Vì lẽ đó đã làm cho nhà văn nhiều khi lại tự chán mình. Trong tập
truyện Nguyễn, Nguyễn Tuân đã viết: “A, cái đời tiềm tàng của riêng mỗi
người, Nguyễn chán lắm rồi, không thể chán hơn được thế này nữa. Chàng đã
mất hết cả tin tưởng trong cái lối sống riêng biệt mà trước kia chàng cho là
màu nhiệm kỳ thú lắm”(9/1020).
Bên cạnh cái giới hạn đó, thì người xem cũng nhận ra nhà văn Nguyễn
Tuân không hoàn toàn quay lưng lại với cuộc sống mà trái lại ông vẫn mở
rộng lòng mình chào đón toàn cầu chung quanh. Điều đó được trổ tài qua
những trang viết của nhà văn. Có thể bảo rằng cần phải có một tâm hồn rộng mở,
cần phải có một tình ái tha thiết so với quê hương, quốc gia mới giúp được nhà
văn có những trang viết thật sinh động & thơ mộng. Từ một con sông, một
con đò, một sân ga, một đoạn đường… mà Nguyễn Tuân đã gặp trên đoạn đường
di dời của mình, những cảnh vật hết sức quen thuộc, thân thiện, thế mà dưới
ngòi bút của nhà văn nó thực sự trở nên cuốn hút lạ kỳ & hình như chứa
đựng cả tâm tư, thiện cảm của nhân loại trong đó. Bức họa cuộc đời của
ông cha ta ngày xưa đã được Nguyễn Tuân ghi lại thật sắc nét. Ví dụ
như cảnh những người dân nghèo vất vả, lam bầy, bán sỉ trên bến Hội An
(Cửa Đại), hay vùng mỏ Vàng Danh, Uông Bí, nơi tài nguyên sung túc của Tổ
quốc thực ra chỉ là cái địa ngục so với người phu mỏ ngày xửa ngày xưa thời thuộc
Pháp. Đằng sau nhiều trang viết, cứ tưởng rằng đó chỉ là sự quẩn quanh với
cái Tôi cá nhân nhà văn, nhưng thực ra không hoàn toàn phải như thế mà là
19
một Nguyễn Tuân thực sự đồng hành với cuộc sống, với thiên nhiên, với con
người.
Mặc dầu còn tồn tại giới hạn trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân, song người xem vẫn nhận ra rằng giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945, Nguyễn Tuân không phải hoàn toàn thoát ly đời sống
hiện thực, quay lưng lại với cuộc sống. Mà trái lại ông vẫn mở rộng lòng
mình để chào đón cuộc đời khách quan, chỉ có điều là Nguyễn Tuân có thói
quen đi để viết: “Chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có trường đời vô thường định
mới dạy cho người ta biết được những câu đẹp đẽ”(9/588). & chính cái ham
mong muốn di dời ấy đã hỗ trợ cho nhà văn Nguyễn Tuân có vốn sống đa dạng,
có sự hiểu biết sâu sắc những phong tục tập quán gia truyền của dân tộc, từ đó
mới đóng góp phần vào việc gìn giữ những tinh hoa, những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Ông không phải là thoát ly đời sống hiện thực hay là quay lưng
lại với cuộc sống như nhiều người đã từng nghĩ.
Trên đây là những quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân khi
sáng tác văn học nghệ thuật. Có thể thấy rằng quan điểm nghệ thuật của nhà
văn có những mặt tranh chấp, không nhất quán. Để lý giải điều này theo
Nguyễn Đăng Mạnh: (*1*) (56/97).
So với nhà văn Nguyễn Tuân khi bước vào đời đã đưa tâm sự bất
hoà sâu sắc với xã hội đương thời về mặt phong tục, thị hiếu, thẩm mĩ. Cuộc
sống xã hội chung quanh người nghệ sĩ lúc này là xã hội thực dân phong kiến
20
luôn tồn tại toàn chuyện xấu xa, bỉ ổi. Nguyễn Tuân đã viết nhiều tác phẩm
lên án bầy cai trị thực dân & phong kiến tay sai như: Một vụ bắt rượu
lậu, Bữa rượu máu, Những ngày Thanh Hoá… Nguyễn Tuân lên án bầy
người xấu xa bởi vì chúng chà đạp lên nét đẹp, không biết chiều chuộng trân trọng
nét đẹp. Ông dè bửu hết lời những bầy lái buôn “cứ đòi đốt trầm nắn phím” &
đau lòng trước “những cuộc tàn sát thi ca của những ông lãnh binh sính làm
thơ”… Trước Cách mạng tháng Tám, tuy Nguyễn Tuân có những trang viết
nhằm vào bầy thực dân, phong kiến, nhưng không phải ông đứng trên lập
trường cách mạng, mà về căn bản lòng yêu nước của ông vẫn có tính chất
tiểu tư sản. Nguyễn Tuân chưa đủ sức mạnh & quyết tâm để ngả theo một
dòng văn học tiến bộ nào. Chính sự do dự không nhất quán trong quan niệm,
chính sự giằng co giữa chủ nghĩa cá nhân & lòng yêu nước, trí não dân tộc
đã làm cho Nguyễn Tuân một mặt mong muốn lảng tránh, ẩn mình vào cái Tôi cá
nhân, nhưng mặt khác tâm hồn nghệ sĩ của một trí thức yêu nước đã kéo ông
trở lại với cuộc sống, với thiên nhiên quốc gia, nhân loại.
Nhà tìm hiểu Nguyễn Đăng Mạnh đã có đánh giá khá đúng đắn, sâu
sắc về tính cầu kỳ trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân: “Nghĩa là
cái tính chất không nhất quán, không dứt khoát giữa hai mặt tích cực và tiêu
cực trong ý thức nghệ thuật Nguyễn Tuân, ngay cả ở những thời kỳ bế tắc
nhất, xét đến cùng là do cái thế giằng co giữa chủ nghĩa cá nhân và lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc. Nó khiến cho ông không quay lưng hẳn được với hiện
thực, muốn thoát ly đấy nhưng không thật đành lòng”(56/98).
Cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sức sống mới cho rất
nhiều nhà văn, trong đó có nhà văn Nguyễn Tuân. Chính nhờ có cách mạng
mà dẫn tới sự đổi thay cái Tôi cá nhân của nhà văn: từ cái Tôi cực đoan đến
cái Tôi công dân nghệ sĩ. Nhờ có cách mạng mà nhà văn Nguyễn Tuân đã
tìm tòi & chớp lấy được quy luật thẩm mĩ chung nhất phù phù hợp với quan
21